Bàn về việc áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam
Đăng ngày: 29/3/12Trong thời gian qua ở Việt Nam, lạm phát đã và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách cũng như từng người dân. Sau một thời gian ổn định, kể từ năm 2004 lạm phát có dấu hiệu quay trở lại và có những tác động nhất định, gây ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế nước nhà.

Thực tế cho thấy, trong vòng 10 năm trở lại đây, kinh tế Việt Nam đang rơi vào tình trạng tăng trưởng thấp, lạm phát cao. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm, từ năm 2007 đến năm 2010 ở mức khoảng 6% và ẩn chứa những yếu tố không bền bững, kém hiệu quả (trước năm 2007, tăng trưởng GDP hàng năm luôn ở mức trên 7%). Trong khi đó, lạm phát luôn có xu hướng tăng cao, trong giai đoạn 2001-2010, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ở Việt Nam tăng bình quân 8,31%/năm, từ năm 2007 đến nay, lạm phát tăng trở lại mức hai con số ngoại trừ năm 2009; năm 2011 lạm phát tăng 18,13%. Vấn đề đặt ra là tại sao các nước trong khu vực đều chịu tác động của biến động giá thế giới, nhất là giá dầu thô và giá các nguyên liệu đầu vào khác nhưng lạm phát luôn thấp hơn so với Việt Nam? Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn nhận lại các mục tiêu của CSTT một cách phù hợp hơn. Rõ ràng, để vừa kiềm chế được lạm phát, vừa đạt được mức tăng trưởng cao là một bài toán rất khó “Một bài toán có nhiều biến số, cần nhiều lời giải khác nhau bao giờ cũng là bài toán phức tạp”. Vì vậy, đã đến lúc phải có những thay đổi cần thiết mang tính nền tảng cơ sở mới mong có được những biến đổi theo ý muốn. Học hỏi theo kinh nhiệm nhiều quốc gia đã thực hiện, có thể nói áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu (LPMT) sẽ là một hướng đi đúng đắn trong điều hành CSTT của Việt Nam.
Việc tăng cường tính độc lập của NHNN là điều kiện tiên quyết nếu muốn áp dụng khuôn khổ LPMT tại Việt Nam. Tại kỳ họp thứ 7, khóa XII Quốc hội đã thông qua Luật NHNN Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng. So với Luật NHNN Việt Nam năm 1997 và Luật NHNN được sửa đổi, bổ sung năm 2003, Luật NHNN Việt Nam năm 2010 đã có nhiều điểm mới, tiến bộ, đặc biệt đã có những qui định thực hiện rõ hơn tính độc lập của NHNN trong thực hiện CSTT quốc gia. Khoản 4, Điều 3 Luật NHNN Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 16/06/2010 của Quốc hội quy định “Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu CSTT quốc gia theo quy định của Chính phủ”. Điều 10 trong Luật NHNN Việt Nam năm 2010 cũng nêu rõ: “Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện CSTT quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ”.
Xét trên khía cạnh điều hành CSTT, có thể nói, NHNN Việt Nam đang tiến dần từ cấp độ độc lập tự chủ thứ tư “độc lập tự chủ hạn chế” (theo thước đo của IMF[1]) lên cấp độ độc lập thứ ba “độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành”. Với sự đổi mới này, NHNN sẽ có được sự linh hoạt và độc lập nhất định trong khâu thực hiện các mục tiêu đề ra của CSTT. Nhờ đó, thị trường tiền tệ và giá trị đồng tiền được kỳ vọng ổn định hơn, vai trò của một NHTW cũng được thể hiện rõ nét hơn và uy tín của NHNN cũng được nâng cao hơn.
Bên cạnh đó, NHNN không ngừng nâng cao tính công khai, minh bạch trong điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng để tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh của tổ chức mình, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiến tới áp dụng khuôn khổ LPMT. Tuy nhiên, so với những tiêu chí cơ bản cho sự thành công của chính sách LPMT thì Việt Nam vẫn còn thiếu. Việc áp dụng ngay chính sách LPMT tại thời điểm hiện tại ở Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thách thức, nhưng đây chính là lúc mà chúng ta cần phải hoàn thiện những điều kiện cơ bản, những tiền đề cho quá trình áp dụng chính sách này trong tương lai khi nền kinh tế đã hội tụ đầy đủ các điều kiện: có một sự độc lập tương đối, một nền sản xuất hàng hóa nội địa vững chắc, lạm phát dao động ở mức hợp lý, cơ sở nguồn thu của ngân sách được mở rộng, chính sách đầu tư công, các doanh nghiệp nhà nước và hệ thống tài chính - ngân hàng được tái cơ cấu ổn định và phát triển.
Từ những phân tích và đánh giá trên, bài viết xin đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện các điều kiện tiền đề cho lộ trình tiến tới áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam:
Với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ năm 2012 của Chính phủ đặt ra là: Điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Điều hành chủ động và linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là chính sách lãi suất, cho vay tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở, kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng cả năm 2012 khoảng 15% - 17%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14% - 16%, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô.
Do đó, NHNN Việt Nam cần đổi mới căn bản khuôn khổ điều hành chính sách tiền tệ sang hướng mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, cụ thể:
Thứ nhất, tăng cường vai trò của NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, nâng cao tính minh bạch trong điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc cụ thể hóa trách nhiệm và thẩm quyền của NHNN theo Luật NHNN năm 2010 bằng các văn bản dưới Luật, trong đó xác định mục tiêu ưu tiên hàng đầu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát và mục tiêu này ở cấp ưu tiên cao hơn mục tiêu ổn định tỷ giá.
Thứ hai, tập trung ổn định tâm lý và cải thiện lòng tin của công chúng đối với chính sách kinh tế vĩ mô, giúp cho người dân nhận thức rõ Chính phủ sẽ quyết tâm duy trì một tốc độ lạm phát ổn định, qua đó làm giảm lạm phát kỳ vọng của dân chúng cũng như lạm phát thực tế. Các giải pháp được đưa ra bao gồm: (1) Ổn định tốc độ tăng cung tiền, cụ thể là NHNN hàng năm sẽ tăng cung tiền với tỉ lệ đúng bằng tốc độ tăng GDP danh nghĩa hoặc cộng thêm một sai số. Đồng thời, NHNN cần xây dựng lộ trình giảm dần việc kiểm soát lãi suất và hướng tới lãi suất sẽ do thị trường quyết định tùy theo mức cung tiền; (2) NHNN cần cam kết duy trì tốc độ lạm phát ở một mức (hoặc phạm vi hẹp), lạm phát mục tiêu ở Việt Nam trong năm 2012 phấn đấu dưới 10% vì khi tốc độ lạm phát vượt ngưỡng này lạm phát tăng sẽ làm giảm tăng trưởng.
Thứ ba, xây dựng kênh thông tin chính thống và cập nhật từ NHNN tới thị trường; Tăng cường thông tin và tuyên truyền nhằm tranh thủ sự ủng hộ và lòng tin của thể chế chính trị và quần chúng vào NHNN; Phát hành định kỳ các báo cáo chính sách tiền tệ và lạm phát.
Thứ tư, điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Trong đó:
+ Hoàn thiện các công cụ và phương thức điều hành CSTT theo hướng gắn với các yếu tố thị trường mà vai trò chủ đạo là nghiệp vụ thị trường mở, phù hợp với các điều kiện thực tế của thị trường tài chính tiền tệ và năng lực quản lý của NHNN Việt Nam; Kết hợp linh hoạt các công cụ chính sách để kiểm soát mức tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ.
+ Đổi mới cơ chế điều hành theo hướng lãi suất là mục tiêu điều hành chủ động trong thực thi chính sách tiền tệ; Gắn điều hành lãi suất trong mối quan hệ hài hòa với điều hành tỷ giá và kiểm soát ngoại hối.
+ Xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc phân tích, dự báo để xây dựng và điều hành CSTT: xác định cơ chế truyền dẫn CSTT; Xây dựng mô hình dự báo chính thức, minh bạch về lạm phát; Đánh giá thường xuyên về hiệu quả cơ chế truyền dẫn; xác định rõ ràng các mục tiêu chính sách trong từng thời kỳ.
Thứ năm, thực hiện cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt có sự điều tiết của nhà nước: Xây dựng tỷ giá điều hành chính thức theo hướng gắn với một rổ các đồng tiền của các đối tác thương mại, đầu tư quan trọng của Việt Nam.
Thứ sáu, đổi mới chính sách quản lý ngoại hối và vàng; cơ bản xóa bỏ tình trạng đôla hóa nền kinh tế trước năm 2015: Tăng cường kiểm tra, kiểm soát tiến tới xóa bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam; Hạn chế cho vay bằng ngoại tệ; chuyển dần quan hệ huy động vốn và cho vay ngoại tệ sang quan hệ mua - bán để đảm bảo thanh khoản ngoại tệ và tăng dự trữ ngoại hối. Đồng thời, cần có các chính sách và giải pháp phù hợp để huy động được nguồn lực vàng trong dân nhằm bình ổn thị trường và vàng trong nước, đầu tư cho phát triển.
Thứ bảy, để góp phần ngăn chặn lạm phát, cần triển khai ngay các giải pháp cụ thể, quyết liệt nhằm cơ cấu lại đầu tư gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở phát huy một cách có hiệu quả nhất các tiềm năng của đất nước. Trong đó, cần triển khai quyết liệt các đề án tái cơ cấu đầu tư công, các doanh nghiệp nhà nước (đặc biệt là các Tổng Công ty Nhà nước) để nâng cao tính hiệu quả nguồn lực tài chính công, nâng cao khả năng quản trị và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại theo nguyên tắc giảm bớt về số lượng và tăng quy mô về vốn, nâng cao chất lượng tín dụng và an toàn hệ thống.
Nhìn chung, chúng ta có thể thấy rằng việc áp dụng khuổn khổ lạm phát mục tiêu đã đạt được thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới và ở khu vực trong việc duy trì lạm phát thấp, ổn định góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp trong dài hạn. Hơn nữa, khuôn khổ lạm phát mục tiêu không đòi hỏi NHTW phải từ bỏ những mục tiêu quan trọng về kinh tế vĩ mô như mức tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm và sự biến động tỷ giá. Thực tế áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu ở một số nước Châu Á như: Philippines, Indonesia và điển hình là Thái Lan đã cho thấy chính sách lạm phát mục tiêu không gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế trong dài hạn, thay vào đó là những tác động tích cực đối với nền kinh tế. Vì vậy, trong thời gian tới, việc áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu được xem là một đột phá chiến lược chính sách tiền tệ cần được nghiên cứu và sớm vận dụng một cách đầy đủ và phù hợp với Việt Nam.
Như Toàn - Hoàng Linh
[1] Theo quy định của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), về cơ bản, mức độ độc lập của NHTW trên thế giới được phân thành 4 cấp độ theo thứ tự từ trên xuống: (1) độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động; (2) độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động; (3) độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành; (4) độc lập tự chủ hạn chế.
Từ Khóa: Lạm Phát, Nền Tảng, Cơ Sở, Kinh Nghiệm, Quốc Gia, Mục Tiêu, Biến Đổi,